Việc mở rộng và xúc tiến xuất khẩu vào các thị trường mới,
nhất là thị trường Nga đòi hỏi phải có sự tháo gỡ chính sách vĩ mô giữa
2 nước, đặc biệt là chính sách thuế (hiện thuế suất nhập khẩu vào Nga
rất cao, 20 USD/kg hàng hóa). Châu Phi và Trung Đông cũng đang là thị
trường rộng mở cơ hội cho hàng dệt may Việt Nam nhưng Châu Phi là thị
trường cấp thấp nên khó có thể cạnh tranh về giá cả với hàng dệt may
Trung Quốc.
Với thị trường trong nước rất đa dạng. Tư duy sính
hàng ngoại lúc này có thể bị lùi bước nếu các doanh nghiệp linh hoạt,
về thời gian bán hàng, các “chiêu” (lành mạnh) về hậu mãi, khuyến mãi,
sự linh hoạt trong tuyển dụng lao động, trong giờ giấc làm việc.
Cùng
với chính sách kích cầu, việc hỗ trợ kinh phí xúc tiến xuất khẩu, tìm
khách hàng, thị trường mới; giãn giảm thuế... đã và sẽ được thực hiện
giúp doanh nghiệp thoát khó khăn, tăng sức cạnh tranh. Nhưng mong đợi
hàng hóa Việt tạo ra được ngay sự “khác biệt” là chưa thể. Hiện nay,
phương án sản xuất hàng nội địa của hầu hết các doanh nghiệp dệt may
lớn cũng chịu sự cạnh tranh của các cơ sở tư nhân do may công nghiệp
chi phí sẽ cao hơn so với may đơn lẻ. Hơn nữa, thị phần của thị trường
đã bị một số công ty nước ngoài, nhất là Trung Quốc chiếm lĩnh. Da giày
cũng chịu chung cảnh này. Lượng tiêu thụ giầy dép trong nước giảm
khoảng 30 - 40% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân do các công ty
tại Trung Quốc không xuất khẩu được nên đẩy mạnh bán hàng sang thị
trường Việt Nam.
Như Giáo sư M.Porter, cha đẻ của chiến lược
cạnh tranh, đã nói cách đây một năm ở Việt nam: cần tìm ra sự khác biệt
để nâng cao sức cạnh tranh. Tìm kiếm một chiến lược kinh doanh có hiệu
quả, tạo ra sự khác biệt trong cạnh tranh nhưng GS Nguyễn Quang Thái
cũng cần nhấn mạnh rằng, trong khi đi tìm sự “khác biệt”, luôn phải chú
ý đến chất lượng cao của sản phẩm và dịch vụ. Việt Nam trong phạm vi cả
nước, từng vùng, từng địa phương, ngành, doanh nghiệp đều có thể tự
đánh giá và mời các chuyên gia đánh giá khả năng vươn lên tìm kiến sự
khác biệt mang tính chất lượng. Đây là bài toán dài hạn, cần liên tục
được xem xét, hoàn thiện, ngay cả khi kinh tế còn có quy mô khiêm tốn.
Kinh
tế thế giới hy vọng sẽ ra khỏi khủng hoảng trong 1-2 năm tới, chứ không
phải sớm hơn. Do đó, cần có những chuẩn bị để các tác động xấu kéo dài
thường thấy sẽ có những giải pháp “cắt cơn” nhanh và vực dậy theo xu
thế phát triển mới, với chất lượng mới. Đôi khi các doanh nghiệp và
toàn bộ nền kinh tế cũng có thể chọn ra một số sản phẩm, dịch vụ “sớm
vươn dậy”, vượt qua khủng hoảng. Theo kinh nghiệm nhiều năm, nông
nghiệp và nông thôn chính là một bảo đảm cho sự phát triển ổn định của
quốc gia. Trong khi kinh tế gặp khó khăn, nhưng nông sản đang tăng
nhanh về số lượng và chất lượng cũng là những lợi thế và cách thức bảo
đảm sự an toàn của quốc gia.