Từ chuyện chất kích nạc ở heo, dư luận đang lo
lắng và bức xúc về nhiều loại hóa chất độc hại trong sản phẩm nông
nghiệp hoặc thực phẩm. Trao đổi về vấn đề này, GS. Nhà giáo nhân dân
Nguyễn Lân Dũng, chủ tịch Hội Các ngành sinh học Việt Nam, cho biết:
Chất
tạo nạc (đúng hơn nên gọi là chất kích nạc) là chất chứa thành phần độc
hại có thể gây rung cơ, rối loạn nhịp tim, thậm chí gây ngộ độc nặng.
Người chăn nuôi lại một phen điêu đứng vì bị người tiêu dùng tẩy chay
sản phẩm. Nguy hiểm ở chỗ ngay cả thuốc tăng trọng còn được quy định
dừng việc sử dụng trước khi bán heo 14-15 ngày, chất kích nạc lại phải
dùng đến tận sát ngày mổ thịt.
Dừng thuốc sớm, heo có
thể bị chết. Do đó, mức độ tồn dư của độc tố trong heo thịt không ai
kiểm soát được, mức độ ảnh hưởng sức khỏe cũng không dễ gì xác minh. Cơ
quan chức năng đang xúc tiến việc làm test phát hiện nhanh chất độc hại
này trong thịt heo, nhưng đây là việc rất khó.
Phải phân biệt rõ việc
sử dụng chất kích nạc trái phép với việc chăn nuôi giống heo siêu nạc.
Heo siêu nạc cần được khuyến khích vì đây là giống heo có được sau một
quá trình lai tạo công phu và hoàn toàn hợp khoa học.
GS - Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Lân Dũng
Nhiều
người lo lắng không chỉ có chất kích nạc mà rất nhiều loại hóa chất sử
dụng trong nông nghiệp đe dọa an toàn thực phẩm vẫn đang lưu hành hằng
ngày...
Rất đáng lo ngại khi
hầu như cả nước đang bị nhiễm độc từ rau quả ở mức độ khác nhau bởi rất
nhiều loại thuốc trừ sâu hóa học. Nguyên nhân là do người trồng rau dùng
cả các loại thuốc trừ sâu độc hại ngoài danh mục cho phép (có được qua
đường nhập lậu), sử dụng quá liều lượng hoặc dùng đến tận lúc sắp thu
hoạch...
Nhiều nơi dùng nhiều
phân đạm vô cơ sẽ dẫn đến việc tích lũy nitrat, nitrit với hàm lượng cao
trong rau, nguy cơ lớn dẫn đến ung thư. Nước ngoài đã cấm dùng các loại
clo hữu cơ, lân hữu cơ từ lâu nhưng các chất này vẫn bị nhập lậu, được
bà con nông dân chuộng vì chúng rẻ, lại có khả năng diệt sâu nhanh.
Thuốc trừ sâu sinh học diệt sâu trên cơ chế buộc sâu ngừng ăn, sau 3
ngày sẽ bị chết đói, tuy rất an toàn nhưng bà con lại không ưa dùng.
“Cơ
quan quản lý của mình bảo sẽ kiểm soát heo dùng chất kích nạc tại chợ
là không khả thi. Phạt một bà bán hàng thịt thì ăn thua gì, khi cái gốc
của nó do người chăn nuôi, người sản xuất thức ăn, buôn bán và vận
chuyển chất kích nạc... lại không kiểm soát nổi” |
Bây
giờ ra đường thấy người ta trưng biển “Cửa hàng rau sạch” mà hoang mang
quá. Phân biệt rau sạch, có nghĩa mặc nhiên thừa nhận có nhiều rau bẩn
ư? Rau để ăn đều phải là rau sạch chứ? Nhiều người tỏ ra thông thái khi
đi chợ chọn rau có dấu hiệu bị sâu ăn lá, rốt cuộc cũng không loại trừ
được khả năng mua phải rau tồn dư hóa chất độc hại.
Đáng sợ hơn, người bán
hàng còn trữ một lọ sâu, thỉnh thoảng rắc lên trên rau vài con để lừa
người mua là rau an toàn. Thế mới có chuyện khôi hài người mua rau trả
tiền xong lại bị người bán đề nghị “cho em xin lại mấy con sâu!”.
Tôi đã được lãnh đạo sở
nông nghiệp và phát triển nông thôn một tỉnh đưa đi xem vùng rau an
toàn. Tôi hỏi lấy gì bảo đảm thì nhận được câu trả lời: “Rất đơn giản,
khi thu hoạch rau được sục rửa bằng khí ozon để hút hết thuốc trừ sâu
ra”. Trời ơi, thuốc trừ sâu khi xâm nhập vào rau đã bị chuyển hóa ngay
rồi, không cách gì hút ra được. Ozon có tác dụng diệt vi khuẩn không có
bào tử, không khác nhiều so với dùng dung dịch thuốc tím (rẻ hơn rất
nhiều).
Nhiều bà nội trợ khoe
sắm được máy ozon rửa rau quả cũng thế, cứ nghĩ có máy là sạch bay thuốc
trừ sâu. Nhưng nói thật, dùng thuốc tím hay nước muối rẻ hơn và tiện
hơn rất nhiều.
Một con heo có hiện tượng sụm chân sớm
Thỉnh
thoảng người dân lại giật mình vì ngành y tế phát hiện “chất phụ gia có
nguy cơ độc hại” trong thực phẩm. Nhưng rồi chính nhà quản lý lại loay
hoay không biết nên cảnh báo thế nào vì nhiều nước chỉ cấm sử dụng các
chất này khi vượt ngưỡng cho phép nhất định. Người tiêu dùng Việt Nam dường như vẫn thiếu những chỉ dẫn cụ thể?
Câu
chuyện về nước tương chứa chất 3-MCPD là một ví dụ. Các nước phải điều
tra sự tiêu thụ của người dân để đề ra mức nguy hiểm. Canada, Phần Lan,
Áo, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất, Mỹ, Úc, Liên minh châu Âu,
Anh... đều có những khuyến cáo về mức tiêu thụ rất cụ thể.
Còn chúng ta chưa có điều tra xem người Việt Nam
chấm bao nhiêu nước tương mỗi ngày mà cấm hoàn toàn nước tương sản xuất
bằng cách dùng axit thủy phân đậu tương (thường rất ngon vì có lượng
đạm amin cao) là chưa thỏa đáng. Nước chấm là thứ gia vị của bữa ăn,
không ai uống nước chấm mà chỉ chấm chút ít, nên phải điều tra rất kỹ
trước khi bắt thay đổi cả công nghệ sản xuất.
Cũng cần phải nói nước
tương truyền thống ở các tỉnh phía Bắc cũng tiềm ẩn nhiều độc hại về độc
tố nấm mà chưa thấy ai lên tiếng. Tương là quá trình lên men bằng xôi
để mọc mốc và ngâm đậu tương đã rang xay, nhằm tạo men phân hủy chất bột
trong gạo nếp và protein trong đậu tương.
Tôi đã trực tiếp đến
vùng có nghề làm tương cổ truyền nức tiếng miền Bắc. Nhìn nong xôi mọc
mốc xanh - đỏ - tím - vàng đủ loại mà hết hồn. Để mốc sinh nhanh, người
ta làm hết mẻ này đến mẻ khác mà không thèm giặt nong. Trong khi đó,
biện pháp giặt sạch nong, loại trừ nấm mốc gây hại rồi dùng gói bào tử
nấm (rất rẻ tiền) an toàn và có hoạt tính cao để cấy vào thì không ai sử
dụng.
Tôi kiến nghị Bộ Y tế,
Bộ Khoa học - công nghệ cần gấp rút cho kiểm tra rộng rãi các mẫu tương
hiện nay xem có chứa độc tố aflatoxin hay không. Đây là loại độc tố nấm
có thể gây ung thư do nấm Aspergillus flavus sinh ra. Nấm này rất khó
phân biệt bằng mắt thường, kể cả dưới kính hiển vi. Nó nguy hiểm hơn
nhiều lần so với chất 3-MCPD từng gây lo lắng cho người tiêu dùng.
Trong quản lý an toàn thực phẩm hiện nay ở nước ta, vấn đề nào còn bị bỏ ngỏ?
Đó là việc quản lý thực
phẩm nhập khẩu. Tôi đã đi đến nhiều vùng cửa khẩu, nơi có cả đơn vị
kiểm nghiệm thực vật và kiểm dịch động vật. Nhưng có tin được không khi
người ta kiểm soát an toàn thực phẩm chỉ bằng một chiếc kính hiển vi. Để
kiểm tra an toàn vi sinh vật, các độc tố, nếu giao cho một viện nghiên
cứu cấp nhà nước có khi mất cả tuần mới xác định được. Đằng này bày
chiếc kính hiển vi ra cho vui chứ làm sao “soi” được thực vật, động vật
nhiễm vi sinh vật gì hay có thể sinh ra độc tố gì?
Quay
lại câu chuyện 2,5 tấn chất kích nạc được phát hiện tại Đồng Nai và các
thuốc trừ sâu nguy hiểm. Khối lượng này không nhỏ như món hàng xách
tay, quản lý ở cửa khẩu thế nào mà để “lọt lưới”?
Nhiều nước đang phát
triển cũng gặp khó khăn tương tự trong việc bảo đảm an toàn vệ sinh thực
phẩm như nước ta. Họ cũng phải bận tâm về chất kích nạc. Nhưng người
dân các nước phát triển hầu như được bảo đảm an toàn bằng cơ chế quản lý
thực phẩm và dược phẩm chặt chẽ. Người vi phạm bị xử lý nghiêm, đủ để
không dám và không thể tiếp tục vi phạm.
Khó kiểm soát an toàn thực phẩm bằng test nhanh
Các
chất có thể gây độc hại trong thực phẩm gồm rất nhiều hợp chất hóa học
khác nhau. Riêng các chất kích nạc thuộc nhóm ß-agonists đã bao gồm tới
ba nhóm: Nhóm ß-agonists có tác dụng ngắn: thường dùng là salbutamol,
terbutaline. Nhóm ß-agonists có tác dụng lâu dài: thường dùng là
clenbuterol, formoterol, salmeterol. Nhóm ß-agonists kết hợp gồm có
budesonide, fluticasone, inratropium...
Việc
kiểm tra, nhất là kiểm tra nhanh, các chất này không phải là chuyện đơn
giản và dễ thực hiện. Với các chất phụ gia thực phẩm và nhất là thuốc
trừ sâu hóa học cũng gồm rất nhiều hợp chất khác nhau. Việc phân tích
đòi hỏi sử dụng các thiết bị sắc ký với các cán bộ có chuyên sâu về lĩnh
vực này. Do đó, không dễ dàng gì để có thể kiểm soát một cách rộng rãi
và nhanh chóng.
PGS.TS Trần Đáng (nguyên cục trưởng Cục An toàn vệ sinh thực phẩm - Bộ Y tế):
Nên có cơ quan quản lý nhà nước duy nhất về thực phẩm
Việc
quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm tại nước ta hiện nay rất không hợp
lý, dù Luật an toàn vệ sinh thực phẩm đã được ban hành. Ở các nước, khi
xảy ra sự cố về an toàn thực phẩm, cơ quan quản lý nhà nước duy nhất về
thực phẩm sẽ phải vào cuộc. Ở Mỹ có Trung tâm an toàn thực phẩm và dinh
dưỡng ứng dụng thuộc Cục Quản lý dược phẩm và thực phẩm, ở Nhật là Cục
An toàn thực phẩm của Bộ Y tế.
Trong
khi đó, luật của Việt Nam rất rối, nào Bộ Công thương quản lý năm ngành
hàng, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (NN&PTNT) quản lý chín
ngành hàng, còn Bộ Y tế lại quản lý vài mặt hàng rất phụ như thực phẩm
chức năng, thực phẩm bổ sung đa vi chất...
Việc
phát sinh chất tạo nạc trong chăn nuôi trách nhiệm chính thuộc Bộ
NN&PTNT, nhưng để đánh giá nó nguy hại đến sức khỏe thế nào không
thể giao cho bộ này được. Theo luật thì Bộ NN&PTNT sẽ chịu trách
nhiệm đến cùng đối với sản phẩm chăn nuôi, kể cả đến khi thịt được ăn
vào người là không ổn.
Bộ
NN&PTNT, Bộ Công thương chỉ có thể chịu trách nhiệm về sản phẩm của
ngành mình ở khâu sản xuất, chế biến, còn khi đã là thành phẩm để ăn
được rồi thì trách nhiệm quản lý phải thuộc về Bộ Y tế.
Theo
kinh nghiệm của các nước, cơ quan an toàn vệ sinh thực phẩm thuộc Bộ Y
tế phải chịu trách nhiệm chính về an toàn thực phẩm. Khi có vấn đề, Bộ Y
tế có thể truy tìm căn nguyên, nếu sự cố nằm từ khâu chăn nuôi sẽ yêu
cầu Bộ NN&PTNT chịu trách nhiệm, chấn chỉnh toàn bộ quy trình chăn
nuôi.
Tuy
nhiên, theo cơ chế này, một đòi hỏi bắt buộc là Bộ Y tế phải sẵn sàng
lên tiếng, chứ không thể lặng lẽ làm ngơ vì nghĩ bất ổn nằm ở bộ khác,
không thuộc trách nhiệm của mình. |