Ngày 30.11, tại Hà Nội, Văn phòng Chính phủ phối hợp với Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương và Học viện Năng lực cạnh tranh châu Á tổ chức Hội thảo công bố Báo cáo năng lực cạnh tranh Việt Nam 2010.
Bản báo cáo đầu tiên về năng lực cạnh tranh Việt Nam đã cung cấp các
số liệu, phân tích và đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm giúp các nhà
hoạch định chính sách trong quá trình xác định hướng đi tương lai; đồng
thời đưa ra những phân tích tổng hợp làm đầu vào cho việc xây dựng một
chiến lược kinh tế vừa dựa trên các kinh nghiệm quốc tế, vừa phù hợp
với điều kiện hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam; đi sâu phân tích những
nguồn lực dẫn dắt tăng trưởng của Việt Nam thời gian qua cũng như những
vấn đề lớn mà đất nước phải giải quyết để tiếp tục duy trì và thúc đẩy
phát triển kinh tế.
Báo cáo đánh giá cho thấy, trong hơn hai thập
kỷ qua, Việt Nam đã tiến được một chặng đường dài, từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung khép kín, Việt Nam đã trở thành một bộ phận năng
động của nền kinh tế toàn cầu. Quá trình này đem lại những lợi ích to
lớn cho đời sống của người dân, tuy nhiên, dù thu nhập bình quân đầu
người của Việt Nam đã chạm tới ngưỡng thu nhập trung bình thấp, nhưng
mức thu nhập tuyệt đối vẫn còn thấp hơn nhiều so với hơn 100 quốc gia
khác trên thế giới. Do vậy, vấn đề quan trọng nhất là Việt Nam cần có
phương pháp tiếp cận đồng bộ và hiệu quả trong việc xây dựng các chính
sách kinh tế vĩ mô; giải quyết các nút thắt cổ chai về kinh tế vi mô
cũng như những yếu tố nền tảng của năng lực cạnh tranh…
Sau đây là 3 bài phát biểu cảm nhận của Giáo sư Michael Porter trong buổi công bố báo cáo năng lực cạnh tranh đầu tiên của Việt Nam 2010:
1.Việt Nam không nên bắt chước Trung Quốc làm hàng giá rẻ:
“Cha đẻ” của chiến lược cạnh tranh
Michael Porter cho rằng Việt Nam nên tìm ra lợi thế và phân khúc thị trường riêng, thay vì dập khuôn mô hình phát triển của Trung Quốc.
“Kinh tế Việt Nam đang phát triển năng động, người
dân cần cù, giá lao động rẻ, thị trường nội địa cũng tương đối rộng
lớn… Việt Nam có thể thành công không chỉ nhờ vào việc bán những hàng
hóa giá rẻ. Các bạn nên chọn một phân khúc kinh doanh, lựa chọn những
ngành hàng mà mình có ưu thế tương đối so với các nước khác trong khu
vực để phát triển. Nếu chỉ bắt chước Trung Quốc hoặc cố gắng dựa vào
nhân công giá rẻ thì thực sự không phải là một lựa chọn khôn ngoan”.
|
Việt Nam không nên bắt chước mô hình sản xuất hàng giá rẻ của Trung Quốc. |
Khuyến nghị thẳng thắn nói trên được Giáo sư Michael
Porter đưa ra khi bất ngờ nhận được câu hỏi từ phía một doanh nhân Việt
Nam về cách thức lựa chọn giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh. Tư
tưởng xây dựng chiến lược cạnh tranh dựa trên sự độc đáo của doanh
nghiệp và sản phẩm cũng được vị Giáo sư Đại học Harvard thể hiện trong
suốt 3 giờ trước hơn 400 thính giả trong lần đầu tiên đến Hà Nội ngày
29/11.
Mở đầu bài thuyết trình về cạnh tranh và chiến lược
công ty bằng việc khẳng định không tồn tại bất kỳ một doanh nghiệp hay
sản phẩm nào được coi là tốt nhất, Giáo sư Porter cho rằng việc đánh
giá phụ thuộc vào từng nhu cầu cụ thể của các nhóm khách hàng. “Một
doanh nghiệp, một sản phẩm có thể tốt nhất trong mắt khách hàng này,
nhưng lại chỉ xếp cuối trong danh sách ưa chuộng của khách hàng khác”,
Giáo sư khẳng định.
Như vậy, nỗ lực để trở thành doanh nghiệp tốt nhất
trong lĩnh vực mình đang hoạt động, điều đang được nhiều công ty lầm
tưởng là mục tiêu để vươn tới, chắc chắn không có cơ thành công. Theo
Giáo sư Porter, nếu kiên quyết thực hiện mục tiêu này, các doanh nghiệp
cạnh tranh sẽ tự đẩy mình vào thế khó và không có lợi cho sự phát triển.
Thay vào đó, các doanh nghiệp có thể làm được những
điều đúng đắn hơn: trở nên khác biệt. Đây cũng là một trong những mấu
chốt quan trọng nhất trong chiến lược cạnh tranh của Michael Porter.
Kiên định theo mục tiêu này, các đối thủ cạnh tranh sẽ tránh được nguy
cơ đối đầu trực tiếp trong khi cùng có cơ hội để phát triển theo định
hướng riêng của mình.
Điểm cốt lõi của việc trở nên khác biệt đối với mỗi
doanh nghiệp hay nền kinh tế là việc lựa chọn cho mình một phân khúc
thị trường, một đối tượng khách hàng nhất định và tập trung đầu tư cho
những cơ hội đó. Ví dụ về thành công của hãng xe tải Paccar tại Mỹ được
Giáo sư Porter trở đi, trở lại trong bài thuyết trình của mình như một
ví dụ tiêu biểu của việc doanh nghiệp biết làm thế nào để trở nên khác
biệt.
Không lựa chọn những khách hàng lớn, Paccar chủ yếu
nhắm vào đối tượng những lái xe tải tự do, những người chỉ mua xe một
hoặc hai lần trong suốt cuộc đời làm việc. Bên cạnh giá trị như một
phương tiện làm việc, chiếc xe với họ còn là nơi thể hiện cá tính bản
thân, nơi gắn bó như một ngôi nhà thứ 2. Do vậy, chiếc xe cần độc đáo,
nhiều tùy biến, bền, tiết kiệm nhiên liệu và đa năng. Yếu tố giá cả,
khi đó bị xếp xuống thứ yếu.
Chính vì nắm được mấu chốt này và tập trung đầu tư
cho nó mà Paccar đã thành công. Lợi nhuận trung bình trên vốn đầu tư
(ROIC) của hãng trong giai đoạn 1983 - 2007 đạt trên 30%. Đây là con số
đáng mơ ước đối với bất cứ một doanh nghiệp nào hoạt động trong một
lĩnh vực khó khăn như sản xuất xe tải tại Mỹ bởi mức lợi nhuận trung
bình của ngành này chỉ đạt khoảng 10% trong giai đoạn nói trên.
Ngược lại, Giáo sư Porter cũng đưa ra ví dụ của
Reebook. Dù hoạt động trong ngành thuận lợi như sản xuất đồ thể thao
nhưng biên lợi nhuận mà hãng này có được chỉ là 25% so với ROIC trung
bình của ngành là trên 30%. Chuyên gia của Đại học Harvard nhìn nhận
đây là một thất bại và bài học rút ra là sự thuận lợi của ngành chỉ là
điều kiện cần chứ chưa đủ cho thành công của doanh nghiệp. Ông cũng
nhấn mạnh rằng mục tiêu lợi nhuận nên được các nhà lãnh đạo xem xét
trước tiên, bởi đây mới chính là động lực giúp doanh nghiệp phát triển
dài hạn.
Vấn đề này cũng được Giáo sư Porter đề cập khi nhắc
tới việc phát triển các tập đoàn, tổng công ty tại Việt Nam. Theo ông,
việc phát triển trên quá nhiều ngành nghề, lĩnh vực như một số tập đoàn
tại Việt Nam đang làm sẽ gây ra tình trạng thiếu nguồn lực cũng như khả
năng quản lý để phát triển tốt tất cả các lĩnh vực đó. Tỷ lệ lợi nhuận,
vì thế sẽ không được đảm bảo, dẫn tới thất bại. Ngoài ra, Giáo sư cũng
lưu ý đến việc tách bạch chiến lược đầu tư ở cấp độ tập đoàn và các
công ty con.
|
Giáo sư nhấn mạnh tính độc đáo trong chiến lược cạnh tranh. |
Một vấn đề quan trọng khác đối với các doanh nghiệp
được chuyên gia của Đại học Harvard nêu ra là việc tái đinh nghĩa cạnh
tranh trong ngành. Theo Giáo sư Porter, hiện nay có nhiều lĩnh vực kinh
doanh gặp cảnh bế tắc khi các doanh nghiệp cố gắng cạnh tranh bằng
những cách giống nhau, bắt chước nhau và chịu cùng chi phí… Cạnh tranh
về giá trong ngành hàng không là một ví dụ.
Với kiểu cạnh tranh này thì chỉ cần một công ty giành
được lợi thế thì công ty khác sẽ mất hoàn toàn cơ hội. Theo “cha đẻ”
của chiến lược cạnh tranh, đây là một cái bẫy mà tất cả các doanh
nghiệp đều không có lợi.
Cách cạnh tranh tích cực, theo ông Porter, là mỗi
doanh nghiệp tìm ra cho minh một vị thế tương đối trong ngành và tập
trung cho vị thế đó. Ở một số lĩnh vực, có sự cạnh tranh mà tất cả các
bên cùng có lơi, nơi mỗi công ty có một lợi thế khác nhau ở những phân
khúc thị trường khác nhau. Đó là sự cạnh tranh giúp mở rộng về giá trị.
Câu chuyện này, chính là gốc rễ cho câu chuyện mô
hình phát triển của kinh tế Việt Nam. Theo Giáo sư Michael Porter, đã
đến lúc Việt Nam cần xác định cho mình một mô hình phát triển kinh tế
mới, một vị trí xứng đáng trong chuỗi giá trị toàn cầu để làm cơ sở cho
các hoạt động đầu tư, phát triển. Vấn đề cạnh tranh ở một vị thế độc
đáo một lần nữa được vị Giáo sư này nhấn mạnh: “Bắt chước Trung Quốc
trong lĩnh vực sản xuất hàng hóa giá rẻ là điều Việt Nam hoàn toàn
không nên làm”, ông Michael Porter nhấn mạnh.
Đây là lần thứ hai giáo sư Michael Porter tới Việt
Nam để chia sẻ quan điểm của mình về thuyết cạnh tranh hiện đại. Bài
nói chuyện của ông tại Hà Nội hôm qua không khác nhiều so với nội dung
đã trình bày tại TP HCM hai năm trước, tuy nhiên ý nghĩa của nó vẫn rất
quan trọng với các doanh nghiệp Việt Nam.
Tham dự diễn đàn hôm qua, ngoài các doanh nhân còn có
nhiều quan chức, chuyên gia, học giả trong và ngoài nước như Thứ trưởng
Bộ Ngoại Giao Đoàn Xuân Hưng, Trưởng đại diện IMF tại Việt Nam Benedict
Bingham, nguyên Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển, chuyên gia Phạm
Chi Lan...
Trao đổi với VnExpress.net bên lề diễn đàn,
ông Tuyển cho rằng với trình độ phát triển của các doanh nghiệp Việt
Nam hiện nay, không dễ để áp dụng quan điểm cạnh tranh như giáo sư
Michael Porter gợi ý, tuy nhiên đó là điều phải làm để đảm bảo sự phát
triển bền vững. Một vấn đề mà giáo sư nêu ra, theo ông Tuyển, khá đúng
với thực trạng của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đó là cạnh tranh
về giá và đối chọi trực tiếp với nhau mà không chịu khó tìm ra điểm
khác biệt.
"Một khi không tìm ra điểm khác biệt, doanh nghiệp dễ
lâm vào thế cạnh tranh trực tiếp với nhau mà nguy hiểm nhất là cạnh
tranh về giá. Trong cuộc cạnh tranh này, nếu một bên thắng thì bên kia
thua. Cạnh tranh tốt nhất phải là hai bên cùng thắng", giáo sư Michael
Porter nói.
2. Michael
Porter chê mô hình tăng trưởng của Việt Nam:
Báo cáo Năng lực cạnh tranh 2010 được công bố sáng nay
đã chỉ ra 3 điểm yếu của kinh tế Việt Nam hiện nay là năng suất lao
động thấp, thiếu kinh tế cụm ngành và chính sách kinh tế vĩ mô không ổn
định.
Đây được xem là bản báo cáo cấp quốc gia đầu tiên của
Việt Nam về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, được xây dựng bởi Viện
Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) và Học viện Năng lực cạnh tranh châu
Á phối hợp thực hiện. Giáo sư Michael Porter, “cha đẻ” của chiến lược
cạnh tranh chính là người chỉ đạo trực tiếp việc thực hiện báo cáo này.
Nhận xét quan trọng nhất được ông Porter đưa ra trong
buổi công bố báo cáo sáng nay 30/11 là mô hình phát triển dựa trên các
yếu tố tự nhiên được thừa hưởng, vốn đã giúp Việt Nam tăng trưởng trong
15-20 năm qua, hiện đã lỗi thời và Việt Nam cần sớm đưa ra một mô hình
mới.
|
Giáo sư Michael Porter tại lễ công bố Báo cáo Năng lực cạnh tranh Việt Nam 2010. |
“Nếu Việt Nam tiếp tục tăng trưởng theo kiểu cũ, tức
là dựa chủ yếu vào đặc điểm địa lý hay dân cư thì không có nghĩa là
khủng hoảng sẽ đến vào năm sau. Tuy nhiên các bạn chắc chắn không thể
duy trì mô hình này trong vòng 5-10 năm tới”, Giáo sư Porter khẳng định.
Nhìn lại quá trình tăng trưởng kinh tế từ năm 1975
đến nay, các nhà làm báo cáo tỏ ra ấn tượng về tốc độ tăng trưởng GDP
cũng như mức thu nhập bình quân đầu người (1.160 USD) mà Việt Nam đạt
được vào năm nay. Tuy nhiên, các chuyên gia vẫn tỏ rõ sự quan ngại đối
với mức thịnh vượng mà xã hội và người dân được hưởng vẫn chưa tương
xứng với tốc độ tăng trưởng.
Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này, theo Giáo sư
Michael Porter, chính là do năng suất lao động chung trong nền kinh tế
(động lực chính cho sự thịnh vượng) còn ở mức quá thấp. Điều này cũng
trực tiếp ảnh hưởng đến mô hình tăng trưởng vốn đang dựa nhiều vào hội
nhập và chuyển dịch lao động chế tác hiện nay (mô hình cổ điển).
Theo các chuyên gia thì mặc dù lượng hàng hóa xuất
khẩu từ khu vực chế tác nhưng gia trị gia tăng còn thấp. Việt Nam cũng
chỉ chủ yếu có thị phần xuất khẩu lớn trong các ngành sử dụng nhiều lao
động và tài nguyên thiên nhiên. Sự liên kết giữa các nhóm ngành xuất
khẩu là hầu như không có.
Điều này khiến những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của
Việt Nam thường không liên quan đến nhau (thủy sản, dệt, đồ nội thất,
may mặc, giày dép…). Do đó không tạo được hiệu ứng “tràn ngập" tại các
thị trường lớn như EU hay Mỹ.
Ở cấp độ năng lực cạnh tranh quốc gia, gần như tất cả
các yếu tố trong 2 phạm vi được nhóm nghiên cứu đưa ra là vĩ mô (thể
chế chính trị, pháp quyền, phát triển con người, chính sách kinh tế vĩ
mô) và vi mô (môi trường kinh doanh và chiến lược doanh nghiệp) đều xếp
hạng từ trung bình trở xuống. Cá biệt, chính sách kinh tế vĩ mô của
Việt Nam được báo cáo đặt chỉ báo màu đỏ, tương đương với một bất lợi
lớn.
Những bất cập nêu trên của mô hình tăng trưởng sẽ đặt
ra những thách thức lớn đối với Việt Nam trong thời gian tới, trực tiếp
ảnh hưởng tới các cân đối vĩ mô. Theo Báo cáo Năng lực cạnh tranh, giá
trị gia tăng thấp của khu vực xuất khẩu, sự mất giá của tiền đồng cộng
với cầu nội địa gia tăng sẽ làm cho thâm hụt thương mại ngày một trầm
trọng.
Trong khi đó, việc các dòng vốn lớn đổ vào nền kinh
tế, cộng với chính sách tiền tệ, tài khóa nới lỏng sẽ gây áp lực không
nhỏ lên lạm phát. Tỷ lệ tăng GDP so với đầu tư cũng ngày một sa sút
khiến cho sự phụ thuộc vào dòng vốn ngoại của nền kinh tế ngày một tăng.
Đứng trước những thực tế nêu trên, nhóm thực hiện báo
cáo đề xuất một loạt giải pháp đối với Chính phủ và cộng đồng doanh
nghiệp Việt Nam nhằm tìm ra mô hình phát triển tương xứng trong giai
đoạn hiện nay.
Theo Giáo sư Michael Porter và các đồng sự, Việt Nam
cần đặt ra một chiến lược mới với 3 nguyên tắc chỉ đạo cơ bản là đặt
năng lực cạnh tranh ở vị trí trung tâm, coi trọng vai trò kinh tế tư
nhân và đưa vai trò của Chính phủ trở thành người tạo dựng lợi thế cho
nền kinh tế. 3 nguyên tắc này được coi là chìa khóa để điều chỉnh các
mất cân đối vĩ mô hiện tại cũng như tạo nền tảng cho một nền sản xuất
có năng suất cao hơn. Các nhà nghiên cứu cũng đề nghị thành lập một Ủy
ban Quản lý năng lực cạnh tranh cấp quốc gia tại Việt Nam, giống như mô
hình đã được thực hiện rất thành công ở Hàn Quốc và nhiều nước khác.
Một giải pháp cũng được Báo cáo nhấn mạnh là phát
triển các cụm ngành sản xuất. Giáo sư Michael Porter ví von công việc
này giống như “xây chiếc cầu nối quá khứ với tương lai của nền kinh tế”
và khẳng định nó phải được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược phát
triển của Việt Nam. Giáo sư kiến nghị nên tập trung vào các lĩnh vực
liên quan đến thu hút đầu tư, phát triển kỹ năng lao động, khu công
nghiệp… Ông và các đồng sự cũng đề xuất một số mô hình thí điểm như cụm
ngành điện tử - cơ khí tại Hà Nội, cụm du lịch ở miền trung hay cụm
ngành dệt may, logistics tại TP HCM…
Đối với việc quản trị doanh nghiệp Nhà nước, Báo cáo
đề nghị Chính phủ nên tách biệt vai trò của mình với tư cách là chủ sở
hữu và hoạt động quản lý điều tiết. Các cơ quan chức năng cũng nên xây
dựng và thực thi các tiêu chuẩn quản trị hiện đại với các doanh nghiệp
này, đảm bảo cạnh tranh theo cơ chế thị trường và thúc đẩy quá trình cổ
phần hóa.
Phát biểu trong lễ công bố Báo cáo Năng lực cạnh
tranh 2010 sáng nay, Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải đánh giá cao chất
lượng những thông tin mà Giáo sư Michael Porter và các đồng sự tại CIEM
và Học viện Năng lực cạnh tranh châu Á mang lại. Ông khẳng định đây là
nguồn dữ liệu quan trọng và sẽ được Chính phủ cân nhắc, sử dụng khi xây
dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ nay đến năm 2015 và 2020.
Đặc biệt tâm đắc với đề xuất thành lập Ủy ban giám
sát năng lực cạnh tranh quốc gia, Phó thủ tướng cho biết sẽ đề đạt ý
tưởng này để Chính phủ có cơ sở xem xét, triển khai trong thời gian tới.
3. Michael Porter: "Việt Nam cần một bước nhảy về thu nhập"
Trao đổi với báo chí và các học giả tại Hà Nội trong
ngày 30/11, Giáo sư Michael Porter cho rằng Việt Nam nên sớm loại yếu
tố lao động giá rẻ ra khỏi danh sách lợi thế nếu muốn phát triển ở
trình độ cao hơn.
- Nhiều ý kiến quốc tế cho rằng Việt Nam hiện nay
có lợi thế của người đi sau. Xin Giáo sư cho biết đâu là cách để phát
huy lợi thế đó?
- Lợi thế của người đi sau là học tập, rút được kinh
nghiệm từ người khác. Do vậy, vấn đề của các bạn là phải học tập, đồng
hóa khoa học công nghệ, quy trình quản lý thật nhanh. Việt Nam không có
áp lực phải trở thành người sáng tạo ra các sản phẩm khoa học, công
nghệ trong vòng ít nhất là 10 năm tới. Nhiệm vụ của các bạn bây giờ là
học tập thật nhanh để sử dụng thiết thực trong các ngành sản xuất.
Muốn vậy, không có cách nào khác là người Việt Nam
phải đi ra nước ngoài, xem trong ngành của mình, họ đang sử dụng công
nghệ gì, quản lý theo quy trình nào… Phải đảm bảo quy trình, công nghệ
được mang về nước là tiên tiến, hiện đại nhất.
|
Giáo sư Michael Porter trong buổi công bố báo cáo năng lực cạnh tranh đầu tiên của Việt Nam. |
- Trong những khuyến nghị của mình về việc thay
đổi mô hình tăng trưởng, ông có cho rằng Việt Nam cần hy sinh một số
lợi thế ngắn hạn để hướng tới những mục tiêu lâu dài hơn. Vậy lợi thế
đó là gì?
- Tôi cho rằng các bạn nên bỏ yếu tố nhân công giá rẻ
ra khỏi những lợi thế của mình. Lương thấp cũng đồng nghĩa với một quốc
gia nghèo, trong khi Việt Nam đang cần thực hiện một cú nhảy thật xa.
Đương nhiên, sau nhiều năm quen thuộc với khái niệm giá lao động thấp,
nâng lương quả là một quyết định không dễ chấp nhận với những nhà đầu
tư tại Việt Nam. Nhưng cũng đã đến lúc người ta phải làm quen với thực
tế là kỹ năng giỏi thì phải được trả lương cao.
Singapore là một ví dụ. Đã có thời điểm họ tiến hành
nâng ngay mặt bằng lương trong nước thêm 25%. Những công việc đòi hỏi
nhân công giá rẻ lập tức chuyển ngay khỏi nước này. Tuy nhiên, thay đổi
đó đã tạo đà cho cả một cuộc cách mạng về kinh tế sau đó.
Dĩ nhiên, trong trường hợp của Việt Nam, với quy mô
lao động lớn hơn nhiều, làm chuyện tương tự quả là liều lĩnh. Tuy vậy,
rõ ràng các bạn cũng cần một cuộc cách mạng trong vấn đề này.
- Ông đánh giá như thế nào về vai trò của kinh tế tư nhân trong giai đoạn phát triển tiếp theo của Việt Nam?
- Tôi luôn cho rằng kinh tế tư nhân là một bộ phận
quan trọng và năng động nhất của nền kinh tế. Nếu đó không phải là khu
vực dẫn đầu thì ít nhất cũng phải tham gia thật sâu vào quá trình phát
triển kinh tế đất nước. Điều này cần sự tạo điều kiện của Chính phủ
cũng như bản thân sự chủ động của các doanh nghiệp. Ngay trong câu
chuyện học tập công nghệ nước ngoài mà tôi nói ở trên cũng cần chủ
động. Doanh nghiệp phải tự đi tìm chứ không thể trông chờ vào ai cả.
- Quy chế hợp tác công - tư (PPP) vốn được nhắc
nhiều tại Việt Nam trong thời gian qua liệu có phải là một cơ hội cho
kinh tế tư nhân phát triển?
- Tôi đánh giá cao việc Việt Nam cân nhắc và triển
khai các dự án theo quy trình PPP. Nó cho thấy việc Chính phủ đang
chuyển dần từ việc áp đặt sang xây dựng chính sách cùng người dân. Quy
chế này tạo ra quan hệ và động cơ cạnh tranh công bằng giữa các doanh
nghiệp. Tuy nhiên, tôi cũng nhấn mạnh rằng việc xây dựng và thực hiện
mô hình PPP phải thực sự hiệu quả mới có thể kích thích và phát triển
kinh tế nói chung và khu vực tư nhân nói riêng.
- Một khuyến nghị khác cũng được ông đưa ra nhiều
lần trong chuyến thăm Việt Nam lần này là việc xây dựng các cụm ngành
kinh tế để thúc đẩy phát triển kinh tế. Theo ông, quá trình này nên bắt
đầu tư đâu?
- Xây dựng các cụm ngành ở đây phải được hiểu là phát
triển từ những cái có sẵn. Nhiều nước đã phát triển cụm ngành theo
những gì họ muốn, nhưng không có cơ sở thực tế. Và họ đã thất bại.
Trong khi đó, nếu xây dựng khu vực mới bắt đầu từ những cái cũ thì rất
dễ thành công.
Nước Nhật là một ví dụ. Giờ đây, ai cũng biết họ đứng
đầu thế giới về robot. Nhưng không phải tự dưng họ làm được robot. Nhật
đã phát triển công nghiệp cơ khí, điện, điện tử từ cách đây hàng chục
năm. Sau đó họ thấy nó phù hợp để phát triển công nghệ robot và đã đi
lên theo hướng này.
Việt Nam cũng vậy. Tôi thấy những cơ sở sẵn có trong
ngành may mặc, du lịch, chế tác, logistics… Nếu gắn kết được các ngành
công nghiệp phụ trợ cho những lĩnh vực này, tổ chức đào tạo cho nó thì
rất dễ thành công. Cũng có một số cụm ngành mới đang manh nha hình
thành như điện, động cơ… Những dự án này đương nhiên là mạo hiểm hơn
nhưng cũng là một cơ hội mà các bạn nên theo đuổi.