Góp ý tại về dự án Luật DN sửa đổi tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội
khóa XIII, TS Vũ Tiến Lộc - Chủ tịch VCCI nhấn mạnh: Hi vọng dự án Luật
DN sửa đổi lần này sẽ tạo ra bước đột phá mới trong việc cải thiện hơn
nữa môi trường kinh doanh, từ đó thúc đẩy, khuyến khích hơn nữa tinh
thần DN, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia của VN.
TS Vũ Tiến Lộc - Chủ tịch VCCI
khẳng định tại Quốc hội: Với tính chất là luật gốc, là cơ sở pháp luật
về kinh doanh tại Việt Nam, chúng ta kỳ vọng Luật DN sửa đổi sẽ là tiền
đề cho một hệ thống pháp luật về doanh nghiệp thực sự tự do
Với các nội dung sửa đổi lần này nếu được Quốc hội thông qua sẽ có thể
nâng hạng chỉ số gia nhập thị trường của Việt Nam từ chiếu dưới mức
trung bình tăng 50 bậc, xếp khoảng thứ 60 cùng chiếu trên với tốp 30%
nền kinh tế có môi trường kinh doanh tốt nhất trong bảng xếp hạng của
ngân hàng thế giới về chất lượng môi trường kinh doanh toàn cầu. Tôi xin
có một số ý kiến góp ý cụ thể như sau:
Một là, cần giảm thiểu các chế định hạn chế quyền tự do kinh doanh tại
các luật chuyên ngành và các văn bản hướng dẫn, tránh tình trạng Luật DN
mở ra trong khi các luật chuyên ngành và các văn bản hướng dẫn thì lại
bó lại.
Chúng ta đều biết nguyên tắc về quyền tự do kinh doanh đã được ghi nhận
và cụ thể hóa trong các quy định của Luật DN từ năm 2005. Với tính chất
là luật gốc, là cơ sở pháp luật về kinh doanh tại Việt Nam, chúng ta kỳ
vọng đây sẽ là tiền đề cho một hệ thống pháp luật về DN thực sự tự do.
Tuy nhiên quá trình thi hành luật gần 10 năm qua đã cho thấy một bức
tranh khác. Với quá nhiều các quy định riêng trong các luật chuyên
ngành, quá nhiều các thủ tục và giấy phép con, cháu, chắt quy định trong
các văn bản hướng dẫn và triển khai ở cấp, nguyên tắc quyền tự do kinh
doanh trong Luật DN đã bị đẩy lùi và vô hiệu hóa từng phần. Nay với quy
định trong dự luật rằng luật chuyên ngành quy định khác với Luật DN về
tổ chức và quản lý cũng như giải thể DN thì áp dụng theo quy định của
luật chuyên ngành.
Tôi lo ngại rằng tình trạng vô hiệu hóa pháp luật về DN sẽ không giảm
bớt thậm chí còn có nguy cơ gia tăng. Chúng ta quy định nguyên tắc chung
trong Luật DN, nhưng lại không có cơ chế kiểm soát các quy định riêng
ngoại lệ được quy định trong luật chuyên ngành thật đáng lo ngại. Vì suy
cho cùng ngành nào cũng có thể là chuyên ngành và đều có thể có luật
riêng với các lý do khác nhau.
Cho nên tôi đề nghị khẳng định dứt khoát về cơ cấu tổ chức và quản trị
DN thì Luật DN phải được ưu tiên áp dụng so với các pháp luật chuyên
ngành.
Hai là, phải chế định khoa học công tác hậu kiểm để đảm bảo quyền tự do
kinh doanh của DN không bị lạm dụng, quyền tự do kinh doanh của DN bắt
đầu từ quyền tự do gia nhập thị trường tức là thành lập DN. Tuy nhiên,
quyền tự do kinh doanh cũng bao hàm trong nó giới hạn không làm phương
hại tới xã hội hay lợi ích của người khác. Vì vậy, để quyền tự do kinh
doanh không bị lạm dụng Luật DN cần đặc biệt chú ý tới các quy định về
hậu kiểm đối với DN ít nhất là trong các lĩnh vực chung thuộc phạm vi
của luật này. Để bảo đảm rằng các DN đã đăng ký để hoạt động kinh doanh,
không phải là DN ma lập ra để mua bán hóa đơn để lừa đảo
Báo cáo hoạt động và tài chính của DN là một thủ tục hậu kiểm cần thiết,
không thể để tình trạng như hiện nay, cơ quan quản lý nhà nước về DN
không biết và xã hội không có được những thông tin đầy đủ về các DN đã
đăng ký còn hay mất và đang hoạt động ra sao, lỗi này nằm ở khâu hậu
kiểm, cụ thể là hậu kiểm thiếu khoa học, thiếu chuyên nghiệp. Luật DN
năm 2005 đã quy định về nghĩa vụ báo cáo hàng năm của DN nhưng không có
hiệu quả bởi việc báo cáo rất nhiêu khê và DN ngại thực hiện, cũng không
có chế tài, kết quả là nhà nước không nắm được tình hình DN. Để mỗi khi
có yêu cầu, các cơ quan Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
các bộ chuyên ngành, mỗi cơ quan lại đưa ra những con số khác nhau về
tình hình DN. Do đó, cần phải tính đến biện pháp hậu kiểm và công tác
thông tin báo cáo có hiệu quả hơn.
Ba là, về ngành nghề kinh doanh và nội dung giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh. Nhiều năm qua việc ghi ngành nghề, mục tiêu quản lý của nhà nước
theo ngành nghề đã không đạt được, nhiều DN để tiện cho mình đã đăng ký
khống cả chục trang giấy về tất cả các ngành nghề trong bản thống kê
kinh tế quốc dân. Cơ quan nhà nước lúng túng trong việc áp mã của ngành
nghề khiến các DN cũng vất vả, hai bên cùng khổ. Nguyên tắc DN được
quyền tự do kinh doanh trong tất cả các lĩnh vực nhà nước không cấm theo
Hiến pháp trên thực tế đã trở thành nguyên tắc DN chỉ được kinh doanh
trong những lĩnh vực quy định trong giấy phép.
|
Nguyên tắc cao nhất của quyền tự do kinh doanh là DN được làm tất cả những gì pháp luật không cấm.
|
Cũng để phục vụ trong việc không ghi ngành nghề kinh doanh trong giấy
đăng ký kinh doanh tôi nhất trí với việc quy định công bố công khai, rõ
ràng danh mục ngành nghề cấm kinh doanh và danh mục các ngành nghề kinh
doanh có điều kiện. Đây là quy định đặc biệt có ý nghĩa bởi nó giúp DN
không phải tự tìm khắp nơi trong cả một rừng pháp luật hiện nay để biết
được về những lĩnh vực họ không được kinh doanh hay họ kinh doanh với
những điều kiện nhất định.
Tuy nhiên, để danh mục này đạt hiệu quả trông đợi thì cần phải quy định
ngay tại dự luật 2 việc: Thứ nhất, danh mục phải được cập nhật thường
xuyên để có thể đưa vào danh mục tất cả các ngành nghề cấm kinh doanh và
kinh doanh có điều kiện theo các thay đổi pháp luật chuyên ngành ở các
cấp, luật, pháp lệnh, nghị định. Để thực hiện yêu cầu này tôi đề nghị
danh mục này không nên là một văn bản cấp Chính phủ. Vì văn bản cấp
Chính phủ có thể thay đổi liên tục được, mà chỉ nên giao cho Bộ Kế hoạch
và Đầu tư công khai, cập nhật thường xuyên.
Thứ hai, dự luật cần quy định về hiệu lực của danh mục này, theo đó DN
không có nghĩa vụ thực hiện các điều kiện kinh doanh không có trong danh
mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Chỉ như vậy thì danh mục này
mới thực sự giúp ích cho DN. Nguyên tắc cao nhất của quyền tự do kinh
doanh là DN được làm tất cả những gì pháp luật không cấm mới thực sự trở
thành hiện thực.
ĐB Trần Hoàng Ngân (TP HCM):
Giấy phép con”, cháu” vô hiệu luật
Dự
luật có nhiều nội dung tiến bộ, hội nhập sâu hơn với thế giới, như cải
cách mạnh về thủ tục hành chính, nhất là khâu đăng ký doanh nghiệp, nội
dung giấy chứng nhận đăng ký, thực hiện đồng thời thủ tục đăng ký với
thủ tục đăng ký thuế, đăng ký lao động.
Doanh nghiệp được quyền
kinh doanh tất cả những ngành nghề mà pháp luật không cấm hoặc không hạn
chế theo đúng tinh thần Điều 31 của Hiến pháp. Tuy nhiên, cần cụ thể
hóa danh mục những ngành nghề cấm kinh doanh, ngành nghề kinh doanh có
điều kiện kèm theo dự thảo luật sửa đổi.
Quá trình thi hành luật
gần 10 năm qua đã cho thấy một bức tranh khác. Với quá nhiều các quy
định riêng trong các luật chuyên ngành, quá nhiều thủ tục và giấy phép
con, cháu, chắt quy định trong các văn bản hướng dẫn, triển khai ở các
cấp, nguyên tắc quyền tự do kinh doanh trong Luật DN đã bị đẩy lùi và vô
hiệu hóa từng phần. Để quyền tự do kinh doanh không bị lạm dụng, Luật
cần đặc biệt chú ý tới các quy định về hậu kiểm đối với doanh nghiệp, ít
nhất là trong các lĩnh vực chung thuộc phạm vi của luật này. Để bảo đảm
rằng các DN đã đăng ký để hoạt động kinh doanh, không phải là DN “ma”,
lập ra để mua bán hóa đơn, để lừa đảo.
ĐB Nguyễn Anh Dũng (Bắc Giang):
DNNN cần cơ chế đặc thù
Đối
với loại hình DNNN, có những đặc thù riêng về chủ sở hữu nên cần có
những quy định riêng đặc thù về cơ cấu tổ chức, quản lý, trách nhiệm...
Những nội dung này cần phải viết cụ thể và chi tiết hơn và đưa vào một
chương trong Luật Đầu tư quản lý vốn nhà nước tại DN đang được Quốc hội
thảo luận tại kỳ họp này. Trong dự thảo đó thiếu hẳn phần quy định về cơ
cấu tổ chức, hoạt động, là một trong những yếu tố rất quan trọng để
quản lý tốt vốn nhà nước tại DN”. Cần xem xét chương quy định về tập
đoàn kinh tế, bởi có rất nhiều kẽ hở. Ví dụ, Cty mẹ ra lệnh cho Cty A là
Cty con phát hành trái phiếu, ra lệnh cho Cty con là Cty B mua trái
phiếu của Cty A thì hậu quả dẫn đến những tổn thất, tranh chấp về mặt
tài chính, Cty mẹ không liên quan trực tiếp đến mặt vốn, không thể quy
định Cty mẹ chịu trách nhiệm gì như trong dự thảo luật này. Đối với quy
mô những tập đoàn tài chính lớn thì phải áp dụng những chuẩn mực an toàn
cao hơn đối với những loại tài chính Cty, tài chính nhỏ. Do vậy, cần
phải nghiên cứu lại những khái niệm về nhóm Cty và tập đoàn và định
nghĩa cho rõ theo cách thức chỉ có một thực thể nhất định.