Văn
hoá doanh nghiệp chính là tài sản vô hình của mỗi doanh nghiệp. Cùng
với sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì việc xây dựng văn hoá
doanh nghiệp là một việc làm hết sức cần thiết nhưng cũng không ít khó
khăn.
1/ Hiểu thế nào về văn hoá doanh nghiệp?
Có
rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn hoá. Theo E.Heriôt thì “Cái gì
còn lại khi tất cả những cái khác bị quên đi - cái đó là văn hoá”. Còn
UNESCO lại có một định nghĩa khác về văn hoá: “Văn hoá phản ánh và thể
hiện một cách tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá
nhân và của mỗi cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ, cũng như đang diễn
ra trong hiện tại, qua hàng bao nhiêu thế kỷ nó đã cấu thành một hệ
thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống và dựa trên đó từng
dân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình”.
Vậy
văn hoá doanh nghiệp là gì? Văn hoá doanh nghiệp là toàn bộ các giá trị
văn hoá được gây dựng nên trong suốt quá trình tồn tại và phát triển
của một doanh nghiệp, trở thành các giá trị, các quan niệm và tập quán,
truyền thống ăn sâu vào hoạt động của doanh nghiệp ấy và chi phối tình
cảm, nếp suy nghĩ và hành vi của mọi thành viên của doanh nghiệp trong
việc theo đuổi và thực hiện các mục đích.
Cũng
như văn hoá nói chung, văn hoá doanh nghiệp có những đặc trưng cụ thể
riêng biệt. Trước hết, văn hoá doanh nghiệp là sản phẩm của những người
cùng làm trong một doanh nghiệp và đáp ứng nhu cầu giá trị bền vững. Nó
xác lập một hệ thống các giá trị được mọi người làm trong doanh nghiệp
chia sẻ, chấp nhận, đề cao và ứng xử theo các giá trị đó. Văn hoá doanh
nghiệp còn góp phần tạo nên sự khác biệt giữa các doanh nghiệp và được
coi là truyền thống của riêng mỗi doanh nghiệp.
2/ Văn hoá doanh nghiệp tại Nhật
Tại
Mỹ, các nhà nghiên cứu đã tìm hiểu mối quan hệ giữa hoạt động của doanh
nghiệp, thành tựu của doanh nghiệp và nội dung văn hóa của doanh nghiệp
đó. Họ nhận thấy rằng hầu hết các công ty thành công đều duy trì, gìn
giữ nền văn hóa doanh nghiệp của mình. Có sự khác biệt giữa các nền văn
hóa trong các công ty. Mỗi nền văn hóa khác nhau có thể đưa ra một hệ
thống văn hóa doanh nghiệp khác nhau. Theo ông A. Urata, văn hóa truyền
thống của Nhật Bản, do hoàn cảnh sau chiến tranh thế giới đã tạo ra
những nét đặc trưng. Đó là những người lao động Nhật Bản thường làm việc
suốt đời cho một công ty, công sở. Họ được xếp hạng theo bề dày công
tác. Trong các công ty của Nhật Bản đều có tổ chức công đoàn. Các quyết
định sẽ được ra theo quyết định của tập thể và các hoạt động đặc trưng
đó có tên là Kaizen.
Văn
hóa doanh nghiệp kiểu Nhật đã tạo cho công ty một không khí làm việc
như trong một gia đình, các thành viên gắn bó với nhau chặt chẽ. Lãnh
đạo của công ty luôn quan tâm đến các thành viên. Thậm chí ngay cả trong
những chuyện riêng tư của họ như cưới xin, ma chay, ốm đau, sinh con...
cũng đều được lãnh đạo thăm hỏi chu đáo. Vì làm việc suốt đời cho công
ty nên công nhân và người lao động sẽ được tạo điều kiện để học hỏi và
đào tạo từ nguồn vốn của công ty. Nâng cao năng suất, chất lượng và đào
tạo con người được coi là hai đặc trưng cơ bản của văn hóa doanh nghiệp
Nhật Bản.
Có
một sự khác bịêt cơ bản trong tư duy của người Nhật về doanh nghiệp.
Tại Mỹ và phương Tây, quyền lực cao nhất trong việc quyết định số phận
của một doanh nghiệp là các cổ đông. Người quản lý doanh nghiệp và vốn
của doanh nghiệp tách hẳn nhau. Cổ đông yêu cầu nhà quản lý phải nâng
cao lợi nhuận của doanh nghiệp trong một thời gian ngắn. Chỉ số cổ tức
là thước đo năng lực của nhà quản lý. Tuy nhiên, người Nhật lại quan
niệm rằng doanh nghiệp tồn tại như một hoạt động mang tính đạo đức. Mọi
người trong công ty phải kết nối với nhau trong mối quan hệ chung. Doanh
nghiệp là một chủ thể thống nhất. Người Nhật quan tâm đến lợi ích doanh
nghiệp và người làm trong doanh nghiệp, thay vì chỉ quan tâm đến lợi
nhuận như ở phương Tây. Do đó, tại một doanh nghiệp Nhật Bản, người lãnh
đạo phải lo nâng cao đời sống cho người lao động và điều này ảnh hưởng
lớn đến chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Nó cũng liên quan mật
thiết đến việc nâng cao chất lượng và năng suất lao động. Sự thống nhất
giữa doanh nghiệp và người làm trong doanh nghiệp đã tạo cho mọi thành
viên sự trung thành cao. Tất cả đều quan tâm đến sự sống còn của doanh
nghiệp, do đó dẫn đến sự tăng trưởng cao.
3/ Thực trạng văn hoá doanh nghiệp ở Việt Nam
Nhìn
nhận một cách tổng quát, chúng ta thấy văn hoá trong các cơ quan và
doanh nghiệp ở nước ta còn có những hạn chế nhất định: Đó là một nền văn
hoá được xây dựng trên nền tảng dân trí thấp và phức tạp do những yếu
tố khác ảnh hưởng tới; môi trường làm việc có nhiều bất cập dẫn tới có
cái nhìn ngắn hạn; chưa có quan niệm đúng đắn về cạnh tranh và hợp tác,
làm việc chưa có tính chuyên nghiệp; còn bị ảnh hưởng bởi các khuynh
hướng cực đoan của nền kinh tế bao cấp; chưa có sự giao thoa giữa các
quan điểm đào tạo cán bộ quản lý do nguồn gốc đào tạo; chưa có cơ chế
dùng người, có sự bất cập trong giáo dục đào tạo nên chất lượng chưa
cao. Mặt khác văn hoá doanh nghiệp còn bị những yếu tố khác ảnh hưởng
tới như: Nền sản xuất nông nghiệp nghèo nàn và ảnh hưởng của tàn dư đế
quốc, phong kiến.
Văn
hoá doanh nghiệp có vị trí và vai trò rất quan trọng trong sự phát
triển của mỗi doanh nghiệp, bởi bất kỳ một doanh nghiệp nào nếu thiếu đi
yếu tố văn hoá, ngôn ngữ, tư liệu, thông tin nói chung được gọi là tri
thức thì doanh nghiệp đó khó có thể đứng vững và tồn tại được. Trong
khuynh hướng xã hội ngày nay thì các nguồn lực của một doanh nghiệp là
con người mà văn hoá doanh nghiệp là cái liên kết và nhân lên nhiều lần
các giá trị của từng nguồn lực riêng lẻ. Do vậy, có thể khẳng định văn
hoá doanh nghiệp là tài sản vô hình của mỗi doanh nghiệp. Theo ông Trần
Hoàng Bảo (1 trong số 300 nhà doanh nghiệp trẻ) nhận xét: Văn hoá của
doanh nghiệp được thể hiện ở phong cách lãnh đạo của người lãnh đạo và
tác phong làm việc của nhân viên. Cũng theo ông Bảo, đối tác khi quan hệ
thì ngoài việc quan tâm tới lợi nhuận của công ty họ còn đánh giá doanh
nghiệp qua văn hoá của doanh nghiệp đó.
Sự
thành công của mỗi doanh nghiệp, đặc biệt là ở các nước châu á thường
được dựa trên mối quan hệ cá nhân của người lãnh đạo, còn các nước Tây
Âu thì thành công của doanh nghiệp lại được dựa trên các yếu tố như khả
năng quản lý các nguồn lực, năng suất làm việc, tính năng động của nhân
viên… Ngoài những yếu tố chủ quan, để xây dựng văn hoá doanh nghiệp còn
phải chú trọng tới những yếu tố khách quan. Đó là việc tạo lập thị
trường, lợi ích của người tiêu dùng, được thể hiện qua “Các nguyên tắc
chỉ đạo để bảo vệ người tiêu dùng”, là quá trình hội nhập vào nền kinh
tế khu vực và thế giới.
4/ Xây dựng văn hoá doanh nghiệp trên cơ sở nào?
Trước
hết chúng ta phải có quan điểm cụ thể về vai trò của văn hoá doanh
nghiệp. Sự thắng thế của bất cứ một doanh nghiệp nào không phải ở chỗ là
có bao nhiêu vốn và sử dụng công nghệ gì mà nó được quyết định bởi việc
tổ chức những con người như thế nào. Con người ta có thể đi lên từ tay
không về vốn nhưng không bao giờ từ tay không về văn hoá. Văn hoá chỉ có
nền tảng chứ không có điểm mốc đầu cuối. Do vậy, xuất phát điểm của
doanh nghiệp có thể sẽ là rất cao nếu như nó được xây dựng trên nền tảng
văn hoá. Các doanh nghiệp khi xây dựng đều phải có nhận thức và niềm
tin triệt để, lúc đó văn hoá sẽ xuất hiện. Mọi cải cách chỉ thực sự có
tính thuyết phục khi nó tách ra khỏi lợi ích cá nhân, còn văn hoá doanh
nghiệp thì phải bảo vệ cho mọi quyền lợi và lợi ích của cá nhân.
Khi
xây dựng văn hóa doanh nghiệp cần phải có những biện pháp cụ thể. Biện
pháp đầu tiên là phải xây dựng một hệ thống định chế của doanh nghiệp,
bao gồm: Chính danh, tự kiểm soát, phân tích các công việc, các yêu cầu.
Sau đó xây dựng các kênh thông tin; xây dựng các thể chế và thiết chế
tập trung và dân chủ như: Đa dạng hoá các loại hình đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực; tiêu chuẩn hoá các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn;
xây dựng cơ chế kết hợp hài hoà các lợi ích để doanh nghiệp trở thành
ngôi nhà chung, là con thuyền vận mệnh của mọi người.
*) Các hạt nhân văn hóa doanh nghiệp
Đây
là cơ sở để hình thành văn hóa doanh nghiệp. Các hạt nhân văn hóa là
kết quả của sự tác động qua lại giữa các thành viên trong doanh nghiệp
với nhau. Khi doanh nghiệp bắt đầu hoạt động, nền văn hóa doanh nghiệp
xuất hiện, phát triển và tự bảo vệ. Văn hóa doanh nghiệp có tính đặc thù
nên các hạt nhân văn hóa được hình thành cũng có tính chất riêng biệt.
Văn hóa của các tập đoàn đa quốc gia khác với văn hóa của các doanh
nghiệp liên doanh hoặc văn hóa của doanh nghiệp gia đình. Hạt nhân văn
hóa doanh nghiệp bao gồm triết lý, niềm tin, các chuẩn mực làm việc và
hệ giá trị.
*) Phát triển văn hóa giao lưu của các doanh nghiệp
Các
doanh nghiệp thường có xu hướng liên doanh, liên kết với nhau. Để tồn
tại trong môi trường kinh doanh phức tạp, đa văn hóa, các doanh nghiệp
không thể duy trì văn hóa doanh nghiệp mình giống như những lãnh địa
đóng kín của mà phải mở cửa và phát triển giao lưu về văn hóa. Việc phát
triển văn hóa giao lưu sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp học tập,
lựa chọn những khía cạnh tốt về văn hóa của các doanh nghiệp khác nhằm
phát triển mạnh nền văn hóa của doanh nghiệp mình và ngược lại.
*) Xây dựng các tiêu chuẩn về văn hóa doanh nghiệp
Để
hình thành một nền văn hóa mạnh và có bản sắc riêng, hầu hết các doanh
nghiệp thường xây dựng cho mình những tiêu chuẩn về văn hóa và buộc mọi
người khi vào làm việc cho doanh nghiệp phải tuân theo. Tuy nhiên, các
tiêu chuẩn này có thể thay đổi khi không còn phù hợp hoặc hiệu quả thấp.
Trong trường hợp như vậy, việc sáng tạo ra những tiêu chuẩn mới là cần
thiết.
Trong
điều kiện toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới và quá trình cạnh tranh
quốc tế ngày càng gay gắt thì văn hóa doanh nghiệp được chú trọng xây
dựng và phát triển. Nó trở thành một loại tài sản vô hình đóng vai trò
cực kỳ quan trọng trong kho tài sản doanh nghiệp và là một trong những
công cụ cạnh tranh khá sắc bén. Những doanh nghiệp không có nền văn hóa
mạnh khó có thể cạnh tranh cao trên thị trường. Đồng thời, doanh nghiệp
có thể tạo ra và tăng uy tín của mình trên thị trường thông qua việc xây
dựng và phát triển một nền văn hóa doanh nghiệp mạnh.
*) Văn hóa tập đoàn đa quốc gia
Các
tập đoàn đa quốc gia có nhiều chi nhánh hoạt động ở nhiều nước trên thế
giới, thường phải đối mặt với môi trường kinh doanh đa sắc tộc, đa quốc
tịch và đa văn hóa. Để tăng cường sức mạnh và sự liên kết giữa các chi
nhánh của các công ty đa quốc gia ở các nước khác nhau, các tập đoàn
phải có một nền văn hóa đủ mạnh. Hầu như tập đoàn đa quốc gia nào cũng
có bản sắc văn hóa riêng của mình và đây được coi là một trong những
điều kiện sống còn, một loại vũ khí cạnh tranh lợi hại. Các công ty đa
quốc gia có mục đích kinh doanh chiến lược, nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng
và danh tiếng cao về chất lượng sản phẩm và dịch vụ trên thị trường thế
giới. Những kết quả này có thể coi là sản phẩm của quá trình vận động
của văn hóa tập đoàn. Tuy nhiên, để đạt được những đỉnh cao của sự thành
công đó, các tập đoàn phải mất nhiều thời gian và tiền bạc. Chẳng hạn,
để có nhãn hiệu Pepsi Cola nổi tiếng với màu xanh tươi trẻ, Tập đoàn
Pepsi phải chọn cách tiếp cận văn hóa phương Đông - sản xuất loại đồ
uống mang nhãn hiệu Pepsi Cola với biểu tượng thiếu âm và thiếu dương
(biểu tượng của những người theo Phật giáo) để đến với khách hàng là
những tín đồ của Phật giáo. Để bảo hộ cho biểu tượng này, Tập đoàn phải
chi tới 500 triệu USD và giá của nhãn hiệu Pepsi đã lên tới 55 tỷ USD.
Đối thủ cạnh tranh của Pepsi Cola là Tập đoàn Coca Cola. Tập đoàn này có
nền văn hóa hùng mạnh và với những ưu thế về danh tiếng, uy tín cũng
như nghệ thuật kinh doanh đã chiến thắng Pepsi Cola trên thương trường
mặc dù đồ uống Coca Cola chỉ được xếp thứ 7 trong số 12 loại đồ uống
hàng đầu của nước Mỹ về chất lượng và đồ uống này đã bị người tiêu dùng
châu Âu tẩy chay vào năm 1999.